Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án và Trọng tài
Trong bài viết này, các luật sư của Công ty luật BFSC giới thiệu các quy định pháp luật có liên quan đến các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án và Trọng tài. Các văn bản pháp luật được đề cập đến trong bài viết chủ yếu là Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 (“Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015”); Luật trọng tài thương mại số 54/2010/QH12 (“Luật trọng tài thương mại 2010”); Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (“Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP”). Chúng tôi lưu ý rằng, nội dung bài viết chỉ cung cấp các thông tin pháp luật và không thể hiện quan điểm tư vấn của tác giả bài viết hay của Công ty luật BFSC về bất kỳ một tình huống thực tiễn hay tình huống giả định nào và do đó không nên được sử dụng cho những việc cụ thể mà chưa có ý kiến tư vấn của luật sư.
Cũng cần lưu ý rằng, các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 chỉ áp dụng đối với các vụ tranh chấp (nghĩa là chỉ áp dụng đối với các vụ việc mà trong vụ việc đó, các bên có mâu thuẫn và xung đột quyền lợi cần được Tòa án hoặc Trọng tài giải quyết). Các biện pháp khẩn cấp tạm thời không áp dụng đối với các việc dân sự (theo Điều 361 Bộ luật tố tụng dân sự, việc dân sự là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân không có tranh chấp, nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động).
Bài viết cũng chỉ đề cập đến các biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ được áp dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại và dân sự, lao động, hôn nhân gia đình mà không đề cập đến các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được quy định trong các thủ tục giải quyết tranh chấp khác. Bài viết cũng không đề cập chi tiết đến các thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; thủ tục thay đổi, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng và xử lý hậu quả của biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp không áp dụng, áp dụng không đúng gây thiệt hại cho các bên liên quan và cũng không đề cập đến thủ tục thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hay giải quyết các hậu quả pháp lý phát sinh từ yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hay từ việc Tòa án, Hội đồng trọng tài áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án và Trọng tài.
Mục đích áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời |
Theo khoản 1 Điều 111 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, các biện pháp khẩn cấp tạm thời có mục đích để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án. Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP hướng dẫn các tình huống cụ thể mà đương sự có thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, bao gồm bốn trường hợp sau đây: (i) Trường hợp thứ nhất: Để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự có liên quan trực tiếp đến vụ án đang được Tòa án giải quyết mà cần phải được giải quyết ngay, nếu chậm trễ sẽ ảnh hưởng xấu đến đời sống, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của đương sự; Ví dụ: A gây thương tích cho B. Tòa án đang giải quyết vụ án yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. B cần tiền ngay để điều trị thương tích tại bệnh viện nên B yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc A thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. (ii) Trường hợp thứ hai: Để thu thập, bảo vệ chứng cứ của vụ án đang do Tòa án thụ lý, giải quyết trong trường hợp đương sự cản trở việc thu thập chứng cứ hoặc chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được; Ví dụ: A khởi kiện tranh chấp ranh giới bất động sản liền kề với B, A yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp, buộc B giữ nguyên hiện trạng mốc giới ngăn cách đất, không được di dời. (iii) Trường hợp thứ ba: Để bảo toàn tình trạng hiện có, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, tức là bảo toàn mối quan hệ, đối tượng có liên quan trực tiếp đến vụ án đang được Tòa án giải quyết; Ví dụ: Trong vụ án ly hôn, người vợ đứng tên sổ tiết kiệm tại ngân hàng, người chồng yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài khoản đứng tên người vợ để bảo đảm cho việc giải quyết phân chia tài sản chung của vợ chồng. (iv) Trường hợp thứ tư: Để bảo đảm việc giải quyết vụ án hoặc thi hành án, tức là làm cho chắc chắn các căn cứ để giải quyết vụ án, các điều kiện để khi bản án, quyết định của Tòa án được thi hành thì có đầy đủ điều kiện để thi hành án. Ví dụ: A là nguyên đơn, yêu cầu Tòa án buộc B phải trả cho A 1.000.000.000 đồng tiền vay, để bảo đảm cho việc thi hành án nên A yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản thuộc quyền sở hữu của B là ngôi nhà X trị giá 900.000.000 đồng. Luật trọng tài thương mại năm 2010 không quy định mục đích của việc yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và điều kiện để yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, Điều 48 Luật trọng tài thương mại năm 2010 có quy định về việc áp dụng Luật trọng tài thương mại và các quy định của pháp luật có liên quan (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác). Do đó, trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác đi, các quy định về mục đích áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 hay của Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP cũng sẽ được áp dụng đối với các biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện theo Luật trọng tài thương mại. Tuy nhiên, cũng cần để ý rằng trong một số biện pháp khẩn cấp tạm thời, điều kiện áp dụng của biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có đối tượng mở rộng hơn (ngoài các bên tranh chấp như theo quy định của Luật trọng tài thương mại năm 2010) hoặc có phạm vi đối tượng bị tác động bởi biện pháp khẩn cấp tạm thời mở rộng hơn do với Luật trọng tài thương mại năm 2010; nhưng không có quy định pháp luật rõ ràng về việc Hội đồng trọng tài có thể căn cứ Điều 48 để được quyền mở rộng phạm vi đối tượng yêu cầu hay đối tượng tác động của biện pháp khẩn cấp tạm thời đó hay không? |
Người có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời |
Theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, người có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bao gồm (i) đương sự, (ii) người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc (iii) cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án vụ án quy định tại Điều 187 của Bộ luật tố tụng dân sự (khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước). Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định Tòa án được quyền tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp đương sự không yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhưng chỉ giới hạn bởi các biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 114 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (xem chi tiết tại phần giới thiệu các biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của Tòa án). Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP quy định Tòa án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: (i) Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó liên quan đến vụ án đang giải quyết; (ii) Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là thực sự cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách và thuộc trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 114 và các điều từ Điều 115 đến Điều 119 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; (iii) Đương sự không làm đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vì có lý do chính đáng hoặc trở ngại khách quan. Ví dụ: Tòa án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng” quy định tại khoản 2 Điều 114 và Điều 116 của Bộ luật Tố tụng dân sự khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: Việc giải quyết vụ án có liên quan đến yêu cầu cấp dưỡng; xét thấy việc cấp dưỡng đó là có căn cứ; nếu không thực hiện trước ngay một phần nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, đời sống của người được cấp dưỡng và đương sự chưa có điều kiện thực hiện được quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Theo Luật trọng tài thương mại năm 2010, các bên tranh chấp là bên có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngoài ra không có bên nào khác được thực hiện quyền này nếu không được xác định là một trong các bên tranh chấp theo thủ tục tố tụng trọng tài. Luật trọng tài thương mại năm 2010 không quy định Hội đồng trọng tài hay Tòa án được quyền tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp các bên tranh chấp không yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. |
Thời điểm yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời |
Theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, thời điểm yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định chung là trong quá trình giải quyết vụ án, nghĩa là sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án và phân công thẩm phán giải quyết vụ án. Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định ngoại lệ tại khoản 2 Điều 111 là trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì việc yêu cầu áp dụng biện pháp đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án. Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP quy định khi có một trong các căn cứ sau đây, đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện (đơn khởi kiện phải được làm theo đúng quy định tại Điều 189 của Bộ luật Tố tụng dân sự) thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật Tố tụng dân sự: (i) Do tình thế khẩn cấp, tức là cần được giải quyết ngay, không chậm trễ; (ii) Cần bảo vệ ngay chứng cứ trong trường hợp nguồn chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được; (iii) Ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra (hậu quả về vật chất hoặc về tinh thần). Luật trọng tài thương mại năm 2010 không quy định thời điểm bên tranh chấp được quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, các quy định của Luật trọng tài thương mại năm 2010 đều đề cập đến thẩm quyền quyết định áp dụng hay không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc về Hội đồng trọng tài mà không có ngoại lệ, do đó có thể hiểu rằng các bên tranh chấp chỉ có thể thực hiện quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sau thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài theo Điều 31 của Luật trọng tài thương mại năm 2010. Ngay cả trong trường hợp bên tranh chấp lựa chọn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Điều 53 Luật trọng tài thương mại, bên tranh chấp cũng chỉ được phép thực hiện quyền này sau khi nộp đơn kiện (nghĩa là sau thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài theo Điều 31). |
Các biện pháp khẩn cấp tạm thời |
Các biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của Tòa ánTheo Điều 114 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, các biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của Tòa án bao gồm: 1. Giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. 2. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng. 3. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm. 4. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động. 5. Tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động. 6. Kê biên tài sản đang tranh chấp. 7. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp. 8. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp. 9. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác. 10. Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ. 11. Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ. 12. Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định. 13. Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ. 14. Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình. 15. Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu. 16. Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án. 17. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà luật có quy định. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tàiTheo khoản 2 Điều 49 Luật trọng tài thương mại năm 2010, các biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài bao gồm: a) Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; b) Cấm hoặc buộc bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định nhằm ngăn ngừa các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng trọng tài; c) Kê biên tài sản đang tranh chấp; d) Yêu cầu bảo tồn, cất trữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của một hoặc các bên tranh chấp; đ) Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên; e) Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp. |
Điều kiện áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể |
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có quy định cụ thể về điều kiện áp dụng đối với từng biện pháp khẩn cấp tại thời, Luật trọng tài thương mại năm 2010 không có hướng dẫn cụ thể về điều kiện áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, theo Điều 48 Luật trọng tài thương mại năm 2010, các quy định về điều kiện áp dụng đối với từng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có thể sẽ được áp dụng đối với tố tụng trọng tài, nếu các bên tranh chấp không có thỏa thuận khác. Trong phạm vi bài viết này, các luật sư của BFSC sẽ đề cập đến các điều kiện áp dụng của 6 biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài như sau: 1. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấpCấm thay đổi hiện trạng tranh chấp là một biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định là thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài theo điểm a khoản 2 Điều 49 Luật trọng tài thương mại năm 2010 và cũng là một biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của Tòa án theo khoản 8 Điều 114 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Điều 122 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định điều kiện áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp là có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay đổi hiện trạng tài sản đó. Điều 122 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 liệt kê một số hành vi đang hoặc đã làm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp và không mở rộng điều kiện áp dụng đối với các hành vi có “khả năng” hay “nguy cơ” làm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp. Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP cũng không có hướng dẫn mở rộng điều kiện áp dụng biện pháp này. 2. Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất địnhCấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định là biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của Tòa án theo khoản 12 Điều 114 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và là biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài theo điểm b khoản 2 Điều 49 Luật trọng tài thương mại năm 2010. Điều 127 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2010 quy định điều kiện áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định là có căn cứ cho thấy đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác thực hiện hoặc không thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có liên quan trong vụ án đang được Tòa án giải quyết. Tại Điều 8 Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP giải thích cụ thể các điều kiện áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định” như sau: (i) Ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án là trường hợp đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác thực hiện hoặc không thực hiện một hoặc một số hành vi cản trở quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ hoặc có hành vi khác gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Ví dụ: Khi xem xét, thẩm định tại chỗ, bị đơn là ông B khóa cửa không cho vào thẩm định. Theo yêu cầu của nguyên đơn thì Tòa án có thể áp dụng biện pháp buộc ông B mở cửa để xem xét, thẩm định tại chỗ. (ii) Ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có liên quan trong vụ án đang được Tòa án giải quyết là trường hợp người bị ảnh hưởng không phải là đương sự trong vụ án nhưng việc thực hiện hoặc không thực hiện một hoặc một số hành vi của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người đó. Điểm b khoản 2 Điều 49 Luật trọng tài thương mại năm 2010 cũng quy định biện pháp khẩn cấp tạm thời này là “cấm hoặc buộc bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định nhằm ngăn ngừa các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng trọng tài”. So sánh giữa Điều 127 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm b khoản 2 Điều 49 Luật trọng tài thương mại năm 2010 có thể nhận thấy phạm vi điều kiện áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định” của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là rộng hơn, cụ thể là (i) không chỉ giới hạn bởi các hành vi của các bên tranh chấp mà bao gồm bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan nào; và (ii) không chỉ giới hạn bởi hành vi gây cản trở hoạt động tố tụng mà còn bao gồm các hành vi làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có liên quan trong vụ án. 3. Kê biên tài sản đang tranh chấpKê biên tài sản đang tranh chấp là một biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài theo điểm c khoản 2 Điều 49 Luật trọng tài thương mại năm 2010 và cũng là một biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của Tòa án theo khoản 6 Điều 114 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Khoản 1 Điều 120 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định điều kiện áp dụng biện pháp kê biên tài sản đang tranh chấp là nếu có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản. Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP quy định Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời kê biên tài sản đang tranh chấp khi có đủ các căn cứ sau đây: (i) Tài sản đang tranh chấp là đối tượng của quan hệ tranh chấp mà Tòa án đang thụ lý giải quyết; (ii) Có tài liệu, chứng cứ chứng minh người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản đó. Ví dụ: Có vi bằng của Thừa phát lại xác định việc người giữ tài sản có hành vi đập phá tài sản đang tranh chấp. Luật trọng tài thương mại năm 2010 không quy định điều kiện áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này và do đó theo Điều 48 Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP cũng sẽ được Hội đồng trọng tài sử dụng, nếu các bên tranh chấp không có thỏa thuận khác. 4. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấpCấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp là một biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài theo điểm e khoản 2 Điều 49 Luật trọng tài thương mại năm 2010 và cũng là một biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của Tòa án theo khoản 7 Điều 114 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Điều 121 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định điều kiện áp dụng biện pháp cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp là có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp cho người khác. Luật trọng tài thương mại năm 2010 không quy định về điều điện áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này nhưng theo quy định tại Điều 48 Luật trọng tài thương mại năm 2010, quy định tại Điều 121 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng có thể được Hội đồng trọng tài sử dụng khi xét yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này. 5. Yêu cầu bảo tồn, cất trữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của một hoặc các bên tranh chấpYêu cầu bảo tồn, cất trữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của một hoặc các bên tranh chấp là một biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài theo điểm d khoản 2 Điều 49 Luật trọng tài thương mại năm 2010. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không có biện pháp khẩn cấp tạm thời giống với quy định này của Luật trọng tài thương mại năm 2010. Tuy nhiên, các biện pháp khẩn cấp tạm thời tương ứng dưới đây của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có thể được xem xét để so sánh: (i) Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác (khoản 9 Điều 114 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015). (ii) Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ (khoản 11 Điều 114 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015). Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định điều kiện áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trên như sau: – Điều kiện áp dụng biện pháp cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác: có tài sản đang tranh chấp hoặc liên quan đến tranh chấp mà có hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác ở thời kỳ thu hoạch hoặc không thể bảo quản được lâu dài (Điều 123 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015); – Điều kiện áp dụng biện pháp phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ: có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án (Điều 126 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015). 6. Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bênYêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên là một biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài theo điểm đ khoản 2 Điều 49 Luật trọng tài thương mại năm 2010. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không quy định biện pháp khẩn cấp tạm thời này. Tuy nhiên, các biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 dưới đây có thể được coi là tương tự trong một số trường hợp cụ thể: (i) Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng (khoản 2 Điều 114 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015). (ii) Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm (khoản 3 Điều 114 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015). (iii) Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động (khoản 4 Điều 114 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015). |
Những trường hợp không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời |
Theo quy định tại Điều 4 Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP thì không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong các trường hợp dưới đây: (i) Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời dẫn đến doanh nghiệp, hợp tác xã bị ngừng hoạt động. Ví dụ: Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa toàn bộ tài khoản duy nhất của doanh nghiệp dẫn đến doanh nghiệp bị ngừng hoạt động. (ii) Việc áp dụng biện pháp cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp, biện pháp phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ quy định tại khoản 7 và khoản 11 Điều 114 của Bộ luật Tố tụng dân sự đối với tài sản là: – Tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mà biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba theo quy định tại Điều 297 Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 (sau đây gọi tắt là Bộ luật Dân sự), trừ trường hợp người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng thời là bên nhận bảo đảm; – Tài sản đã được tổ chức bán đấu giá và người mua được tài sản bán đấu giá đã nộp đủ tiền mua tài sản bán đấu giá, trừ trường hợp kết quả bán đấu giá bị hủy theo quy định của pháp luật hoặc đương sự có thỏa thuận khác. (iii) Việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác quy định tại khoản 10 Điều 114 của Bộ luật Tố tụng dân sự đối với tài khoản được doanh nghiệp sử dụng để thanh toán nghĩa vụ đối với tổ chức tín dụng theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng. (iv) Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản trong các trường hợp sau đây: – Tài sản bị cấm lưu thông theo quy định của pháp luật; tài sản phục vụ quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng; – Tài sản của cá nhân gồm: Lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu; thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh; vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng dùng để chăm sóc người ốm; đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa phương; công cụ lao động cần thiết, có giá trị không lớn được dùng làm phương tiện sinh sống thiết yếu của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; đồ dùng sinh hoạt thiết yếu; – Tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gồm: Thuốc phục vụ việc phòng, chữa bệnh cho người lao động; lương thực, thực phẩm, dụng cụ và tài sản khác phục vụ bữa ăn cho người lao động; nhà trẻ, trường học, cơ sở y tế và thiết bị, phương tiện, tài sản khác thuộc các cơ sở này, nếu không phải là tài sản để kinh doanh; trang thiết bị, phương tiện, công cụ bảo đảm an toàn lao động, phòng, chống cháy nổ, phòng, chống ô nhiễm môi trường. Lưu ý rằng, các quy định tại Điều 4 Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP nêu trên cũng có thể được Hội đồng trọng tài xem xét, áp dụng theo quy định tại Điều 48 Luật trọng tài thương mại năm 2010 nếu các bên tranh chấp không có thỏa thuận khác. |
Thực hiện biện pháp bảo đảm khi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời |
Theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10, 11, 15 và 16 Điều 114 của Bộ luật này (bao gồm: Kê biên tài sản đang tranh chấp (khoản 6 Điều 114); Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp (khoản 7 Điều 114); Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp (khoản 8 Điều 114); Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ (khoản 10 Điều 114); Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ (khoản 11 Điều 114); Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu (khoản 15 Điều 114); Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án (khoản 16 Điều 114)) phải nộp cho Tòa án chứng từ bảo lãnh được bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Tòa án ấn định nhưng phải tương đương với tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh do hậu quả của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền yêu cầu. Đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 111 của Bộ luật này (trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cùng thời điểm nộp đơn khởi kiện) thì thời hạn thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại khoản này không được quá 48 giờ, kể từ thời điểm nộp đơn yêu cầu. Theo khoản 3 Điều 50 Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì theo quyết định của Hội đồng trọng tài, bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Hội đồng trọng tài ấn định tương ứng với giá trị thiệt hại có thể phát sinh do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng gây ra để bảo vệ lợi ích của bên bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá được gửi vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng do Hội đồng trọng tài quyết định. Quy định này không loại trừ bất kỳ biện pháp khẩn cấp tạm thời nào thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, có nghĩa là Hội đồng trọng tài có thể quyết định bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải thực hiện biện pháp bảo đảm đối với bất kỳ yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nào. Cần lưu ý rằng, biện pháp đảm bảo này chỉ nhằm dự phòng để giải quyết thiệt hại có thể phát sinh mà không phải là biện pháp đối ứng đối với giá trị của tài sản bị tác động bởi biện pháp khẩn cấp tạm thời. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP, để ấn định một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá tương đương với tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh do hậu quả của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng thì Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử phải dự kiến và tạm tính có tính chất tương đối thiệt hại thực tế có thể xảy ra nhưng không thấp hơn 20% giá trị tạm tính của tài sản bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, trừ trường hợp có chứng cứ rõ ràng chứng minh tổn thất hoặc thiệt hại thấp hơn 20% giá trị tạm tính của tài sản bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời |
Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời |
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Luật trọng tài thương mại năm 2010 đều quy định chung về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời như sau: (i) Người có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp đơn yêu cầu bằng văn bản; (ii) Thẩm phán hoặc Hội đồng trọng tài hoặc Hội đồng xét xử quyết định về việc có áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của người yêu cầu hay không và biện pháp đảm bảo mà người yêu cầu phải thực hiện); (iii) Thẩm phán hoặc Hội đồng trọng tài hoặc Hội đồng xét xử ra quyết định về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; (iv) Thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; (v) Sửa đổi, bổ sung, thay đổi, chấm dứt áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. |
Về việc lựa chọn Tòa án để yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi vụ tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài. |
Điều 48 Luật trọng tài thương mại năm 2010 không hạn chế quyền của các bên tranh chấp yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong khi vụ tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài và việc một bên tranh chấp yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không bị coi là sự bác bỏ thỏa thuận trọng tài hoặc khước từ quyền giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Tuy nhiên, khi lựa chọn Tòa án để yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, các bên tranh chấp cần lưu ý các vấn đề sau: (i) Một số biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ thuộc thẩm quyền của Tòa án (ví dụ: bắt giữ tàu bay, tàu biển, cấm xuất cảnh) và một số biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài (yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên); (ii) Các quy định không rõ hoặc chưa đầy đủ của Luật trọng tài thương mại năm 2010 có thể được vận dụng theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP và các văn bản liên quan nếu các bên không có thỏa thuận khác (ví dụ như thỏa thuận không áp dụng các quy định khác) hoặc quy tắc tố tụng trọng tài mà các bên đã lựa chọn để giải quyết tranh chấp không có quy định khác; (iii) Phạm vi điều kiện áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án có thể sẽ rộng hơn so với điều kiện áp dụng của Hội đồng trọng tài trong một số một biện pháp khẩn cấp tạm thời nhất định như đã phân tích trong bài viết; và, theo quy định tại khoản 3 Điều 50 Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời mà lại có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án phải từ chối và trả lại đơn yêu cầu, trừ trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Do đó, có thể xảy ra khả năng bị từ Tòa án từ chối yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của một bên tranh chấp trong vụ tranh chấp đang được giải quyết bởi trọng tài trong các tình huống dưới đây: – Bên tranh chấp đó đã yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời, nay tiếp tục yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đó nhưng mở rộng phạm vi áp dụng do các nội dung mở rộng không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; – Bên tranh chấp đó đã yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời, nay yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác; – Bên tranh chấp đó đã yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời, nay yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với phần yêu cầu mở rộng, mặc dù biện pháp khẩn cấp tạm thời yêu cầu bổ sung lần này thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài nhưng phần mở rộng của biện pháp khẩn cấp tạm thời đó lại không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. |
Mọi ý kiến đóng góp về bài viết, vui lòng liên hệ với nhóm tác giả: Luật sư Phan Quang Chung và Luật sư Nguyễn Ngọc Diệp. |