Chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng cho mục đích rút ngắn thời gian giao dịch tại Upcom, đăng ký niêm yết cổ phiếu sớm của công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(a) Luật chứng khoán
Trong bài viết “các hình thức chào bán cổ phiếu để trở thành công ty đại chúng”, tác giả đã đề cập đến hai hình thức chào bán cổ phiếu để trở thành công ty đại chúng, bao gồm: (i) chào bán cổ phiếu riêng lẻ; và (ii) chào bán cổ phiếu ra công chúng. Cần lưu ý rằng, ngoài hai hình thức chào bán cổ phiếu để trở thành công ty đại chúng đã được đề cập, việc cơ cấu lại doanh nghiệp (sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, mua lại doanh nghiệp hoặc tài sản) cũng có thể là hình thức được xét đến để một công ty đại chúng mới được hình thành (tác giả sẽ đề cập đến việc hình thành công ty đại chúng sau cơ cấu lại doanh nghiệp trong một bài viết khác). Trong bài viết này, tác giả đề cập đến khả năng một công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(a) Luật chứng khoán thực hiện chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng để rút ngắn thời gian đăng ký niêm yết cổ phiếu.
Chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng cho mục đích rút ngắn thời gian giao dịch tại Upcom, đăng ký niêm yết cổ phiếu sớm của công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(a) Luật chứng khoán.
Như đã đề cập trong bài viết “”các hành thức chào bán cổ phiếu để trở thành công ty đại chúng”, công ty đại chúng là công ty cổ phần thuộc một trong hai trường hợp quy định tại Điều 32.1(a) hoặc 32.1(b) Luật chứng khoán. Theo đó, công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(b) là công ty đại chúng đã chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng thành công thông qua đăng ký chào bán với Ủy ban chứng khoán Nhà nước; và công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(a) là công ty đại chúng đáp ứng quy định về vốn điều lệ, vốn chủ sở hữu và cơ cấu cổ đông mà không phải trên cơ sở kết quả chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng thành công thông qua đăng ký với Ủy ban chứng khoán Nhà nước.
Hai loại công ty đại chúng này được Ủy ban chứng khoán nhà nước công nhận tư cách công ty đại chúng thông qua việc xác nhận kết quả chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng (đối với công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(b)) hoặc thông qua xác nhận hồ sơ đăng ký hợp lệ (đối với công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(a)). Sau khi được công nhận tư cách công ty đại chúng, cổ phiếu của công ty đại chúng có thể đăng ký niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán (nếu đáp ứng điều kiện niêm yết, đối với công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(b)) hoặc phải đăng ký giao dịch tại sàn giao dịch dành cho chứng khoán chưa niêm yết (Upcom) đối với cổ phiếu của công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(a) Luật chứng khoán hoặc công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(b) Luật chứng khoán nếu không đủ điều kiện niêm yết. Cổ phiếu của công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(a) Luật chứng khoán phải giao dịch tại Upcom ít nhất 02 (hai) năm mới được quyền đăng ký niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán (nếu đủ điều kiện niêm yết).
Vấn đề mà công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(a) Luật chứng khoán đặt ra là làm cách nào rút ngắn thời gian giao dịch cổ phiếu tại Upcom để sớm được niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng khoán chính thức?
Các quy định về niêm yết chứng khoán hiện hành cho thấy việc niêm yết cổ phiếu chỉ dành cho các cổ phiếu đã được chào bán ra công chúng thông qua đăng ký với Ủy ban chứng khoán Nhà nước và đã được Ủy ban chứng khoán Nhà nước xác nhận là chào bán thành công hoặc cổ phiếu đã giao dịch tại Upcom tối thiểu 02 năm đối với cổ phiếu chưa chào bán ra công chúng (ngoài việc cổ phiếu đáp ứng các điều kiện niêm yết khác). Vì vậy, đối với cổ phiếu của các công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(a) Luật chứng khoán, khả năng để được niêm yết ngay sau khi trở thành công ty đại chúng là không thể. Để cổ phiếu được niêm yết, công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(a) Luật chứng khoán phải thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng.
Câu hỏi tiếp theo được đặt ra là việc chào bán cổ phiếu ra công chúng của công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(a) Luật chứng khoán sẽ được coi là chào bán lần đầu ra công chúng hay chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng?
Xét các quy định tại Điều 14, Điều 15, Điều 16 Luật chứng khoán và quy định về hình thức chào bán chứng khoán ra công chúng tại Điều 10 Nghị định 155/2020/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật chứng khoán, tác giả bài viết cho rằng, việc chào bán cổ phiếu ra công chúng của công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(a) Luật chứng khoán được xác định là chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng mà không phải là trường hợp công ty đại chúng chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng.
Tuy nhiên, các quy định của Luật chứng khoán và hướng dẫn thi hành hiện tại chưa có hướng rõ ràng đối với trường hợp công ty đại chúng đã chào bán cổ phiếu ra công chúng nhưng sau đó bị hủy tư cách công ty đại chúng, khi đáp ứng điều kiện trở lại là công ty đại chúng và được xác nhận tư cách công ty đại chúng lần nữa thì lần chào bán cổ phiếu ra công chúng đầu tiên (sau khi được xác nhận tư cách công ty đại chúng lần 2) sẽ được gọi là chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng hay chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng? Mặc dù trên thực tế, việc chào bán cổ phiếu ra công chúng của công ty đại chúng, dù là chào bán lần đầu hay chào bán thêm, ngoài mục đích huy động vốn cho tổ chức phát hành thì đều hướng đến mục đích niêm yết, và việc đó phụ thuộc rất nhiều vào hồ sơ doanh nghiệp trong ít nhất 02 năm liền kề trước năm đăng ký chào bán.
Chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng của công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(a) Luật chứng khoán là chào bán theo hình thức nào?
Theo quan điểm của tác giả bài viết, chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng của công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(a) Luật chứng khoán chỉ được thực hiện theo hình thức quy định tại Điều 10.1(a) Nghị định 155/2020/NĐ-CP là “chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng để huy động thêm vốn cho tổ chức phát hành” mà không phải là các hình thức chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng khác được quy định tại Điều 10.1(b) hay 10.1(c) Nghị định 155/2020/NĐ-CP.
Câu hỏi tiếp theo là khả năng niêm yết toàn bộ cổ phiếu của công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(a) Luật chứng khoán sau khi chào bán thành công cổ phiếu lần đầu ra công chúng?
Theo quan điểm của tác giả bài viết, Điều 109.1(b) Nghị định 155/2020/NĐ-CP chỉ quy định điều kiện đối với cổ phiếu đăng ký giao dịch trên Upcom và cổ phiếu được chào bán ra công chúng với quy định như sau “Đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua việc niêm yết; đã giao dịch trên hệ thống giao dịch Upcom tối thiểu 02 năm, trừ trường hợp tổ chức đăng ký niêm yết đã chào bán cổ phiếu ra công chúng, doanh nghiệp cổ phần hóa”. Điều 109 Nghị định 155/2020/NĐ-CP không quy định đối điều kiện niêm yết đối với cổ phiếu đã chào bán ra công chúng mà quy định điều kiện đối với “tổ chức phát hành” và điều kiện để được loại trừ việc phải giao dịch tối thiểu 02 năm tại Upcom là “tổ chức phát hành đã chào bán cổ phiếu ra công chúng”. Do đó, việc niêm yết toàn bộ cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu cũ (không phải là cổ phiếu được chào bán thêm) và cổ phiếu mới được chào bán ra công chúng là có thể được chấp thuận.
Kết luận: Để rút ngắn thời gian giao dịch tại Upcom, sớm niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng khoán chính thức, công ty đại chúng quy định tại Điều 32.1(a) Luật chứng khoán có thể lựa chọn hình thức chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng để huy động vốn cho tổ chức phát hành theo Điều 10.1(a) Nghị định 155/2020/NĐ-CP. Việc chào bán thành công cổ phiếu theo hình thức này có thể giúp công ty rút ngắn thời gian giao dịch tại Upcom và sớm niêm yết toàn bộ cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng khoán chính thức (nếu đáp ứng các điều kiện niêm yết cổ phiếu khác theo quy định.
Lưu ý rằng, nội dung bài viết thể hiện quan điểm của người viết bài, không phải là ý kiến tư vấn của tác giả hay của BFSC Law LLC với một tình huống cụ thể. Vì vậy, chúng tôi khuyến cáo người đọc không sử dụng thông tin trong bài viết để áp dụng vào một tình huống thực tế tương tự, tác giả bài viết và BFSC Law LLC không chịu trách nhiệm về mọi hậu quả xảy ra đối do sử dụng thông tin trong bài viết như một ý kiến tư vấn pháp lý. Mọi tình huống cụ thể, Khách hàng cần liên hệ với BFSC Law LLC để nhận được ý kiến tư vấn pháp lý từ những luật sư có kinh nghiệm.
Mọi ý kiến trao đổi, xin vui lòng liên hệ với tác giả bài viết:
Luật sư Phan Quang Chung
BFSC Law LLC (Hanoi Office)
Điện thoại: (024) 7108 2688 | Email: [email protected]