Giải quyết tranh chấp thương mại trong trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được
Giải quyết tranh chấp thương mại trong trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được
Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được là trường hợp có thỏa thuận trọng tài nhưng do hình thức trọng tài, trung tâm trọng tài, trọng tài viên hoặc quy tắc tố tụng trọng tài mà các bên đã thỏa thuận không thể thực hiện được hoặc người tiêu dùng không lựa chọn khởi kiện tại Trọng tài. Mặc dù cùng là trường hợp có thỏa thuận trọng tài nhưng quy định pháp luật đối với trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được lại có sự khác biệt đáng kể so với tình huống thỏa thuận trọng tài vô hiệu, đặc biệt là về quyền lựa chọn khởi kiện tại Tòa án trong trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.
Bài viết này, nhóm tác giả đề cập đến các quy định pháp luật liên quan đến việc khởi kiện, thụ lý, giải quyết tranh chấp phát sinh trong trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được. Các cơ sở pháp lý được viện dẫn trong bài viết chủ yếu là từ Luật Trọng tài thương mại số 54/2010/QH12 (“Luật TTTM”); Nghị quyết số 01/ 2014/NQ-HĐTP ngày 20/03/2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Trọng tài thương mại (“Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP”); Quy Tắc Tố Tụng Trọng Tài được ban hành bởi Trung Tâm Quốc Tế Việt Nam (VIAC) và có hiệu lực kể từ ngày 01/03/2017 (“Quy Tắc Tố Tụng Trọng Tài VIAC”).
Nội dung bài viết
Thế nào là thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được?
Khởi kiện tại Tòa án hay Trọng tài khi thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được?
Hậu quả pháp lý của tố tụng trọng tài khi thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được?
Làm cách nào để khắc phục thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được?
Bài viết này, nhóm tác giả mong muốn cung cấp cho người đọc các thông tin pháp lý để xác định thế nào là thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thủ tục lựa chọn khởi kiện ban đầu, các hậu quả pháp lý liên quan đến thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được và các biện pháp khắc phục thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được. Lưu ý rằng, các nội dung bài viết thể hiện quan điểm riêng của nhóm tác giả, không phải là quan điểm tư vấn của Công ty luật BFSC và chỉ nên sử dụng để tham khảo. Các tình huống phát sinh thực tế cần được đánh giá, tư vấn bởi các luật sư.
1. Thế nào là thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được?
Luật TTTM không định nghĩa thế nào là thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được. Khái niệm thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được chỉ được nêu tại Điều 6 Luật TTTM với nội dung như sau:
“Điều 6. Toà án từ chối thụ lý trong trường hợp có thoả thuận trọng tài
Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được.”
Theo hướng dẫn tại Điều 4 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP thì thỏa thuận trọng tài không thực hiện được là thỏa thuận trọng tài thuộc một trong các trường hợp sau đây:
“1. Các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài cụ thể nhưng Trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng tài kế thừa, và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trung tâm trọng tài khác để giải quyết tranh chấp.
2. Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, hoặc Trung tâm trọng tài, Tòa án không thể tìm được Trọng tài viên như các bên thỏa thuận và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế.
3. Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, Trọng tài viên từ chối việc được chỉ định hoặc Trung tâm trọng tài từ chối việc chỉ định Trọng tài viên và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế.
4. Các bên có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài nhưng lại thỏa thuận áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác với Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài đã thỏa thuận và điều lệ của Trung tâm trọng tài do các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp không cho phép áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác và các bên không thỏa thuận được về việc lựa chọn Quy tắc tố tụng trọng tài thay thế.
5. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng có điều khoản về thỏa thuận trọng tài được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn quy định tại Điều 17 Luật TTTM nhưng khi phát sinh tranh chấp, người tiêu dùng không đồng ý lựa chọn Trọng tài giải quyết tranh chấp.“
2. Khởi kiện tại Tòa án hay Trọng tài khi thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được?
Điều 6 Luật TTTM quy định “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được”.
Khoản 3, khoản 4, khoản 5 Điều 43 Luật TTTM có quy định một số trường hợp có thỏa thuận trọng tài nhưng thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được và cách giải quyết như sau:
“3. Trường hợp các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài cụ thể nhưng Trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng tài kế thừa, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn Trung tâm trọng tài khác; nếu không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết.
4. Trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế; nếu không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết.
5. Trường hợp các bên đã có thỏa thuận trọng tài nhưng không chỉ rõ hình thức trọng tài hoặc không thể xác định được tổ chức trọng tài cụ thể, thì khi có tranh chấp, các bên phải thỏa thuận lại về hình thức trọng tài hoặc tổ chức trọng tài cụ thể để giải quyết tranh chấp. Nếu không thỏa thuận được thì việc lựa chọn hình thức, tổ chức trọng tài để giải quyết tranh chấp được thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn.“
Các quy định tại khoản 3, 4, 5 Điều 43 Luật TTTM đề cập đến các trường hợp có thỏa thuận trọng tài nhưng thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được. Cách giải quyết được đưa ra trong các trường hợp này là nếu các bên không có thỏa thuận thay thế thì tùy từng trường hợp cụ thể, một bên có quyền khởi kiện tại Tòa án hoặc nguyên đơn được quyền lựa chọn hình thức, tổ chức trọng tài. Có lẽ là trong đa số các trường hợp liên quan đến thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì nguyên nhân chủ yếu liên quan đến việc xác định, lựa chọn trung tâm trọng tài, trọng tài viên và quy tắc tố tụng trọng tài, hình thức trọng tài. Rõ ràng là trong trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì việc yêu cầu một bên tranh chấp khởi kiện tại trọng tài là điều không tưởng. Do đó, việc Luật TTTM quy định quyền khởi kiện tại Tòa án hoặc quyền lựa chọn hình thức, tổ chức trọng tài theo nguyên đơn là hợp lý. Do đó, khác biệt cơ bản với trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu, trong trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, các bên được quyền lựa chọn khởi kiện tại Tòa án ngay từ ban đầu.
Cần phân biệt rằng, quyền lựa chọn khởi kiện tại Tòa án trong trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được khác với trường hợp một bên lựa chọn khởi kiện tại Tòa án trong trường hợp các bên vừa có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại trọng tài, vừa có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại Tòa án được quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP.
3. Hậu quả pháp lý của việc giải quyết tranh chấp thỏa thuận trọng tài vô hiệu tại Trọng tài?
Như đã phân tích tại mục 2, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được ít khi được thụ lý bởi trọng tài. Trong trường được thụ lý, quá trình tố tụng trọng tài có thể phát sinh các hậu quả pháp lý như sau:
(3.1) Hội đồng trọng tài tự mình đình chỉ giải quyết tranh chấp theo khoản 1 Điều 43 Luật TTTM.
Theo khoản 1 Điều 43 Luật TTTM thì Hội đồng trọng tài tự mình đình chỉ giải quyết tranh chấp khi có cơ sở xác định thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được. Khoản 2 Điều 28 Quy Tắc TTTT VIAC cũng quy định rõ Hội đồng trọng tài phải xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài và phải tự mình đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp khi thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được. Trong trường hợp Hội đồng trọng tài xét thấy có căn cứ đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp do thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì Hội đồng trọng tài quyết định đình chỉ việc giải quyết và thông báo ngay cho các bên biết.
Sau khi Hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp theo khoản 1 Điều 43 Luật TTTM, các khả năng sau có thể sẽ xảy ra:
(i) Nếu không có khiếu nại nào về việc Hội đồng trọng tài đình chỉ giải quyết tranh chấp được nộp cho Tòa án và các bên không có thỏa thuận nào khác (về việc sửa đổi, bổ sung thỏa thuận trọng tài) thì các bên được quyền khởi kiện vụ tranh chấp ra Tòa án. Trong trường hợp này, quy định về thời hiệu khởi kiện tại khoản 6 Điều 44 sẽ được áp dụng, theo đó: thời hiệu khởi kiện sẽ được tính theo quy định của pháp luật; và thời gian từ ngày nguyên đơn khởi kiện tại Trọng tài đến ngày Tòa án ra quyết định thụ lý giải quyết vụ tranh chấp không tính vào thời hiệu khởi kiện. Cần lưu ý rằng, quy định về thời hiệu này chỉ áp dụng nếu các bên khởi kiện vụ tranh chấp ra Tòa án, không áp dụng cho trường hợp các bên khởi kiện vụ tranh chấp ra Trọng tài.
(ii) Nếu có khiếu nại của một bên yêu cầu Tòa án xem xét về quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài thì tùy theo quyết định của Tòa án, các khả năng sau sẽ tiếp tục xảy ra:
(ii1) Trường hợp Tòa án quyết định rằng Hội đồng trọng tài đình chỉ giải quyết tranh chấp là không đúng thì Hội đồng trọng tài sẽ tiếp tục tiến hành giải quyết tranh chấp.
(ii2) Trường hợp Tòa án quyết định rằng Hội đồng trọng tài đình chỉ giải quyết tranh chấp là đúng và các bên không có thỏa thuận khác thì các bên có quyền khởi kiện vụ tranh chấp ra Tòa án. Trong trường hợp khởi kiện ra Tòa án, quy định về thời hiệu khởi kiện tại khoản 6 Điều 44 Luật TTTM sẽ được áp dụng như phân tích tại mục 3.1(i).
(3.2) Hội đồng trọng tài vẫn tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp.
(i) Nếu không có bên nào phản đối, khiếu nại việc Hội đồng trọng tài tiếp tục giải quyết tranh chấp thì Hội đồng trọng tài sẽ tiếp tục giải quyết tranh chấp trên cơ sở nguyên đơn đã lựa chọn và bị đơn không phản đối. Trong trường hợp này, trên quan điểm thận trọng thì Hội đồng trọng tài chỉ tiến hành giải quyết tranh chấp nếu sau khi thụ lý, các bên đã đạt được sự đồng thuận về việc chấp nhận tố tụng của Hội đồng trọng tài hoặc các bên “không phản đối” việc Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp.
Quá trình tố tụng trọng tài, Hội đồng trọng tài có thể sẽ ban hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên tranh chấp theo Điều 58 Luật TTTM hoặc ban hành phán quyết trọng tài theo Điều 61 Luật TTTM. Trong trường hợp này, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên tranh chấp hoặc phán quyết trọng tài có lẽ sẽ không bị hủy bởi lý do thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được cho dù có yêu cầu của một bên tranh chấp vì nguyên đơn đã lựa chọn và bị đơn thì không phản đối.
(ii) Nếu có khiếu nại để yêu cầu Tòa án xem xét quyết định tiếp tục giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài thì phụ thuộc vào kết quả giải quyết khiếu nại của Tòa án, các khả năng sau đây sẽ diễn ra:
(ii1) Trường hợp Tòa án đồng ý với quyết định tiếp tục giải quyết của Hội đồng trọng tài thì vụ tranh chấp sẽ được Hội đồng trọng tài tiếp tục giải quyết. Trong trường hợp này, nếu Hội đồng trọng tài ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên tranh chấp theo Điều 58 Luật TTTM hoặc ra phán quyết theo Điều 61 Luật TTTM.
(ii2) Trường hợp Tòa án quyết định thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì Hội đồng trọng tài phải ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp. Sau khi Hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp, nếu các bên không có thỏa thuận khác, thì các bên có quyền khởi kiện tranh chấp ra Tòa án. Trong trường hợp này, quy định về thời hiệu tại khoản 6 Điều 44 Luật TTTM sẽ được áp dụng như phân tích tại mục 3.1(i).
(3.3) Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên tranh chấp, phán quyết trọng tài bị hủy vì lý do thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.
Về mặt lý thuyết, vẫn tồn tại những khả năng là quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên tranh chấp hoặc phán quyết trọng tài bị hủy vì lý do thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, ngay cả trong trường hợp Tòa án đã từng bỏ qua vấn đề thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được khi giải quyết khiếu nại theo Điều 44 Luật TTTM.
Tuy nhiên, như đã phân tích tại mục 2, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được chủ yếu xuất phát từ các nguyên nhân liên quan đến thỏa thuận lựa chọn trung tâm trọng tài, lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn hình thức trọng tài, lựa chọn quy tắc tố tụng trọng tài. Trên quan điểm thận trọng thì ít khi một trung tâm trọng tài lại thụ lý các vụ tranh chấp mà trong thỏa thuận trọng tài không dẫn chiếu đến trung tâm trọng tài đó. Trong trường hợp có thụ lý, thì cũng trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng về khả năng các bên đã đạt được thỏa thuận mới hoặc sự chấp thuận hoặc sự không phản đối việc thụ lý, giải quyết vụ tranh chấp của trung tâm trọng tài. Trong quá trình tiến hành tố tụng trọng tài, Hội đồng trọng tài sẽ tiếp tục xem xét lần nữa về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài (và của trung tâm trọng tài) đối với vụ tranh chấp. Do đó, có lẽ rằng tố tụng trọng tài chỉ tiếp tục diễn ra nếu các bên đã đạt được thỏa thuận mới hoặc chấp thuận và không phản đối việc tiến hành giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài. Trong trường hợp đó, việc công nhận sự thỏa thuận của các bên tranh chấp hoặc ra phán quyết trọng tài cũng chỉ được thực hiện nếu thuộc trường hợp này. Do đó, khả năng để yêu cầu hủy quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên tranh chấp hoặc hủy phán quyết trọng tài là không cao, xét trên quy định pháp luật về “mất quyền phản đối’ tại Điều 13 Luật TTTM.
4. Khắc phục thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.
Các phân tích trong bài viết này chỉ ra rằng, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được phát sinh từ thỏa thuận trọng tại được xác lập giữa các bên. Thỏa thuận trọng tài không thế thực hiện được chủ yếu liên quan đến sự lựa chọn của các bên về trung tâm trọng tài, trọng tài viên, hình thức trọng tài, quy tắc tố tụng trọng tài nên việc nộp đơn khởi kiện tại Trọng tài là khó có thể thực hiện được.
Do đó, theo quan điểm của nhóm tác giả thì các bên tranh chấp cần lưu ý các vấn đề pháp lý sau liên quan đến thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được:
(i) Cẩn trọng trong việc soạn thảo, đàm phán hợp đồng và thỏa thuận điều khoản trọng tài, ký kết hợp đồng và ký kết điều khoản trọng tài để phòng ngừa khả năng rủi ro dẫn tới thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được;
(ii) Sửa đổi, bổ sung thỏa thuận trọng tài ngay trước khi khởi kiện để phòng tránh các rủi ro phát sinh sau khi tố tụng trọng tài. Khi tiến hành các thỏa thuận sửa đổi, bổ sung này, cần lưu ý đến khả năng thực tiễn tại thời điểm và thời hiệu khởi kiện.
(iii) Cân nhắc sớm đến khả năng khởi kiện tại Tòa án trong trường hợp có nguy cơ không đạt được thỏa thuận nhằm sửa đổi, bổ sung thỏa thuận trọng tài (thỏa thuận trọng tài đã được xác lập trước đó nhưng đã ở trong tình trạng không thể thực hiện được vào thời điểm cần giải quyết tranh chấp).
(iv) Đề cập đến nội dung thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được với Hội đồng trọng tài vào thời điểm thích hợp để phòng ngừa rủi ro phát sinh liên quan đến tố tụng trọng tài dẫn đến đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp (với Nguyên đơn) hoặc “mất quyền phản đối” (đối với Bị đơn).
Tác giả bài viết: Luật sư Phan Quang Chung | Trợ lý luật sư Phạm Thị Kiều Anh.