Cập nhật quy định về thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của Ngân hàng, tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ.
Ngày 27 tháng 6 năm 2025, Quốc hội ban hành Luật số 96/2025/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng (“Luật Các TCTD sửa đổi”), có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 10 năm 2025. Luật số 96/2025/QH15 đã bổ sung thêm ba điều khoản về xử lý tài sản bảo đảm tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, gồm Điều 198a quy định về “Quyền thu giữ tài sản bảo đảm”, Điều 198b quy định về “Kê biên tài sản của bên phải thi hành án đang được sử dụng để làm tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu” và Điều 198c quy định về “Hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự”. Ngày 25 tháng 11 năm 2025, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 304/2025/NĐ-CP quy định điều kiện tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu được thu giữ theo điểm đ khoản 2 Điều 198a Luật số 96 (“Nghị định 304”).
Các quy định tại Điều 198a Luật Các TCTD sửa đổi và Nghị định 304 tạo nên một khung pháp lý rõ ràng hơn cho các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ trong thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu để xử lý khoản nợ phát sinh từ hoạt động cấp tín dụng. Trước khi Điều 198a được ban hành, Điều 301 Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 có quy định rằng người đang giữ tài sản bảo đảm có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm để xử lý nợ khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 299, nhưng điều luật này cũng đồng thời quy định rằng nếu người giữ tài sản bảo đảm không giao tài sản bảo đảm, thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy khác. Do đó, các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các tổ chức mua bán, xử lý nợ chỉ có thể tự mình thu giữ tài sản bảo đảm trong trường hợp người giữ tài sản bảo đảm tự nguyện giao tài sản bảo đảm trong quá trình xử lý nợ; trường hợp ngược lại, các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ thường phải thực hiện một bước trung gian là khởi kiện tại Tòa án để buộc bên bảo đảm giao tài sản bảo đảm. Quy định tại Điều 198a Luật Các TCTD sửa đổi sẽ tạo điều kiện cho quá trình thu giữ, kê biên và xử lý tài sản đảm bảo nhanh hơn, giúp cho quá trình thu hồi, xử lý nợ xấu nhanh hơn và hiệu quả hơn.
Trong bài viết này, luật sư của BFSC đề cập đến một số nội dung chính của Điều 198a Luật Các TCTD sửa đổi và Nghị định 304 về thu giữ tài sản bảo đảm.
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm
Điều 198a Luật Các TCTD sửa đổi, một lần nữa nhắc lại nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của bên bảo đảm, người đang giữ tài sản bảo đàm và quy định một cách rõ ràng rằng, trong trường hợp bên bảo đảm, người đang giữ tài sản bảo đảm không giao tài sản bảo đảm thì tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức xử lý, mua bán nợ được quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Quy định của điều luật đã bổ sung quyền thu giữ tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ phù hợp với quy định về giao tài sản bảo đảm để xử lý theo Điều 301 Bộ luật dân sự hiện hành.
Bên được quyền thu giữ tài sản bảo đảm
Điều 198a Luật Các TCTD sửa đổi quy định bên được quyền thu giữ tài sản bảo đảm là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ. Việc ủy quyền thu giữ tài sản bảo chỉ được thực hiện giữa các tổ chức sau:
(i) Tổ chức tín dụng chỉ được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của tổ chức tín dụng đó;
(ii) Tổ chức mua bán, xử lý nợ chỉ được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng bán nợ, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của tổ chức tín dụng bán nợ;
(iii) Tổ chức tín dụng được chuyển giao bắt buộc được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc hoặc công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc.
Bên có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm
Điều 198a Luật Các TCTD sửa đổi quy định Bên có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm gồm bên bảo đảm và người giữ tài sản bảo đảm. Điều luật không làm rõ thế nào là người giữ tài sản bảo đảm, có thể hiểu là Bên được quyền thu giữ tài sản bảo đảm được quyền yêu cầu bất kỳ tổ chức, cá nhân nào đang thực tế chiếm giữ, quản lý tài sản bảo đảm phải giao tài sản bảo đảm, không bị hạn chế bởi việc người đang giữ tài sản bảo đảm thực hiện việc chiếm giữ tài sản thông qua giao dịch nào, nếu việc thu giữ tài sản phù hợp với các quy định tại Điều 198a Luật Các TCTD sửa đổi.
Điều kiện thu giữ tài sản bảo đảm
Khoản 2 Điều 198a Luật Các TCTD quy định các điều kiện thu giữ tài sản bảo đảm gồm:
(i) Xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 299 Bộ luật dân sự. Theo Điều 299 Bộ luật dân sự, các trường hợp được xử lý tài sản bảo đảm bao gồm: Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ; Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ hoặc theo quy định của pháp luật; Trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc luật có quy định.
(ii) Hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
(iii) Biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ ba;
(iv) Tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong các vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật; không thuộc trường hợp bị tạm đình chỉ xử lý theo quy định của pháp luật về phá sản;
(v) Tài sản bảo đảm được thu giữ phải đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ. Theo quy định tại Nghị định 304, trường hợp thu giữ tài sản bảo đảm là chỗ ở duy nhất của bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm phải trích một khoản tiền cho bên bảo đảm bằng 12 tháng lương tính theo lương tối thiểu; trường hợp thu giữ tài sản bảo đảm là công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất không hình thành từ vốn vay của bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm phải trích một khoản tiền cho bên bảo đảm bằng 06 tháng lương tối thiểu. Điều kiện này chỉ áp dụng đối với bên bảo đảm là cá nhân và các điều kiện để tính lương tối thiểu, xác định thế nào là chỗ ở duy nhất hoặc công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất không hình thành từ vốn vay được quy định chi tiết tại Nghị định 304.
(vi) Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ đã thực hiện nghĩa vụ công khai thông tin theo quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 198a.
Ngoài các quy định nêu trên, cần để ý rằng, tài sản bảo đảm được thu giữ phải là tài sản đảo đảm cho khoản nợ xấu, được xác định theo các quy định của Luật Các TCTD sửa đổi và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Trình tự, thủ tục thu giữ tài sản bảo đảm
Điều 198a quy định, trước khi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, Bên có quyền thu giữ phải thực hiện nghĩa vụ công khai thông tin về việc thời gian, địa điểm, tài sản dự kiến thu giữ và lý do thu giữ. Bên có quyền thu giữ phải công khai thông tin chậm nhất là 15 ngày đối với trường hợp thu giữ bất động sản (điều luật không quy định về thời gian tối thiểu phải công khai thông tin đối với trường hợp thu giữ tài sản bảo đảm là động sản). Điều luật quy định các hình thức công khai thông tin gồm (i) đăng thông tin trên trang điện tử của Bên có quyền thu giữ; (ii) Gửi thông báo cho UBND cấp xã; (iii) Niêm yết tại UBND cấp xã (hình thức này không áp dụng đối với thu giữ tài sản là động sản); (iv) Thông báo cho bên bảo đảm, bên giữ tài sản bảo đảm.
Điều luật quy định, trong trường hợp bên bảo đảm, người giữ tài sản bảo đảm là động sản không hợp tác giao tài sản, UBND cấp xã chứng kiến và ký biên bản thu giữ; nhưng điều luật không quy định rõ về việc thu giữ tài sản bảo đảm là bất động sản sẽ được thực hiện như thế nào trong trường hợp bên bảo đảm, người giữ tài sản bảo đảm là động sản không hợp tác bàn giao tài sản.
Quy định nội bộ về thu giữ tài sản bảo đảm
Khoản 7 Điều 198a Luật Các TCTD sửa đổi quy định các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ phải xây dựng quy định nội bộ về trình tự, thủ tục thực hiện thu giữ tài sản bảo đảm, bao gồm cả quy định khi thực hiện việc ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm.
Điều luật không buộc các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước, Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước hay phải công khai quy định nội bộ này trên trang tin điện tử hoặc phải cung cấp quy định nội bộ này cho bên bảo đảm khi giao kết hợp đồng bảo đảm.
Áp dụng quy định về thu giữ tài sản bảo đảm của Luật Các TCTD sửa đổi và Nghị định 304 đối với các tài sản hình thành từ các hợp đồng bảo đảm tài sản trước ngày 01 tháng 12 năm 2025
Điều 198a Luật Các TCTD sửa đổi có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 10 năm 2025 và Luật số 96/2025/QH15 không có quy định về việc áp dụng Điều 198a đối với các tài sản bảo đảm được giao kết trong các hợp đồng bảo đảm được giao kết trước ngày Luật số 96/2025/QH15 có hiệu lực.
Tuy nhiên, thu giữ tài sản bảo đảm là một hoạt động phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo đảm, nên việc áp dụng quy định của Điều 198a cho các tài sản bảo đảm được hình thành từ các hợp đồng bảo đảm ký trước ngày 15 tháng 10 năm 2025 là phù hợp, nếu nội dung các hợp đồng này đã thể hiện nội dung về việc bên bảo đảm đồng ý sẽ giao tài sản cho bên nhận bảo đảm để xử lý nợ, và tài sản bảo đảm đáp ứng các điều kiện quy định tại Nghị định 304. Điều 8 Nghị định 304 quy định chuyển tiếp về việc áp dụng Nghị định 304 đối với các hợp đồng bảo đảm, văn bản thỏa thuận bảo đảm ký trước ngày Nghị định 304 có hiệu lực thi hành.
Quý khách có nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn về việc thu giữ tài sản bảo đảm khi xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ, vui lòng liên hệ với Ban thư ký:
Địa chỉ: VP 1034, tầng 10, Tòa nhà Pacific Place, 83B Lý Thường Kiệt, phường Cửa Nam, thành phố Hà Nội.
Điện thoại: (024) 7108 2688 | Email: [email protected]
Mọi trao đổi về bài viết, xin vui lòng liên hệ với tác giả bài viết:
| Luật sư Phan Quang Chung | Email: [email protected] | Trợ lý luật sư Trần Hồng Hạnh | Email: [email protected] |

